Cho phép trẻ chú ý nhiều hơn đến việc “làm” thay vì tự dán nhãn có thể cải thiện khả năng tập trung và khả năng vận động. Nó không phải là một thành tựu nhất thời đi kèm với cuộc đời của trẻ, mà là một “tư duy phát triển”.
“Ngôn ngữ” có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách
Đặc biệt đối với những đứa trẻ chưa được hoàn thiện về nhân cách, những khác biệt tinh tế về ngôn ngữ mà cha mẹ sử dụng có thể tác động hoàn toàn khác đến tâm lý và tính cách của trẻ.
Về sự khác biệt giữa “khen con chăm chỉ” và “khen con thông minh”, chúng ta sẽ dễ dàng phát hiện ra những ưu và khuyết điểm của cả hai.
Khi bạn khen con làm việc chăm chỉ, con bạn tập trung vào mục đích “Con cần phải làm việc chăm chỉ” và khi bạn khen con thông minh, con bạn tập trung vào kết quả của việc “Con phải thông minh”.
Cái nào dễ thành công hơn? Rõ ràng là cái trước.
Mục đích của “nỗ lực” không chỉ giúp trẻ dễ đạt được mục đích hơn mà còn cải thiện khả năng tập trung và khả năng làm việc của trẻ. Chúng sẽ không sợ hậu quả của thất bại, vì bản thân “hành động” đã có nghĩa là thành công.
Cái mác “thông minh” không chỉ khiến đứa trẻ càng khó đạt được, mà còn phải duy trì thông qua việc liên tục thành công.
“Khen ngợi trẻ thông minh” sẽ không cho phép trẻ trải nghiệm nhiều thành công hơn, mà là “thất vọng” nhiều hơn.
Khi một đứa trẻ phát triển sự phủ nhận bản thân vì hai hoặc ba lần thất bại, đứa trẻ sẽ có suy nghĩ cảm xúc tiêu cực “tôi không thông minh” và mất tự tin về bản thân.
Trên thực tế, đã có những cuộc thí nghiệm
Cha mẹ biết rằng giáo dục con cái cần dựa trên sự khuyến khích, nhưng làm thế nào để làm điều đó? Nhiều bậc cha mẹ chưa suy nghĩ và thực hành cách khen con, cách khích lệ con, những tín hiệu cha mẹ gửi đến con như thế nào là hiệu quả nhất.
Carol Dwick, một nhà tâm lý học xã hội tại Đại học Stanford, Hoa Kỳ, đã thực hiện một loạt thí nghiệm kinh điển giữa 400 học sinh lớp 5 ở New York.
Mở đầu, Devik sẽ phát cho mỗi em một bộ câu hỏi kiểm tra khá đơn giản.
Sau đó, nhà nghiên cứu sẽ cho trẻ biết điểm số và kèm theo một lời khen ngợi gồm sáu từ.
Một nửa số trẻ nhận được “Con phải thông minh”, và nửa còn lại nhận được “Con phải chăm chỉ”.
Sau đó, Devik yêu cầu bọn trẻ làm bài kiểm tra thứ hai. Trong bài kiểm tra này, trẻ có thể lựa chọn độ khó của các câu hỏi kiểm tra một cách độc lập.
Kết quả là 90% trẻ được khen vì chăm chỉ chọn câu khó hơn.
Hầu hết các em được khen thông minh đều chọn những câu hỏi đơn giản.
Sau đó, Devik sắp xếp một bài kiểm tra thứ 3. Lần này, không có sự lựa chọn nào về độ khó của các câu hỏi kiểm tra, và chúng đều rất khó. Không có gì ngạc nhiên khi tất cả những đứa trẻ đều thất bại.
Tuy nhiên, giống như thí nghiệm mà chúng tôi đã đề cập trước đó, hai nhóm trẻ phản ứng hoàn toàn khác nhau khi phải đối mặt với cùng một kết quả thất bại.
Những đứa trẻ trong “nhóm làm việc chăm chỉ” vẫn đủ dũng cảm để thử thách những vấn đề khó khăn và thử nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết vấn đề; trong khi những đứa trẻ trong “nhóm thông minh” dường như bị đánh bại và tỏ ra chán nản, sợ hãi vấn đề.
Devik phân tích rằng điều này là do họ cảm thấy rằng đây là bằng chứng cho thấy họ không đủ thông minh.
Kết quả của thí nghiệm cổ điển của Dwick là điểm số của trẻ em trong nhóm chăm chỉ tăng 30%, trong khi điểm số của trẻ em trong nhóm thông minh giảm 20%. Kết quả tương tự cũng thu được trong năm thí nghiệm liên tiếp.
Có thể thấy sức mạnh của ngôn ngữ và mức độ mà những lời nói vô ý của cha mẹ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ qua thí nghiệm này.
Nhà tâm lý học Eriksson có một quan điểm nổi tiếng, ông tin rằng thiên tài không đến từ “tài năng”, mà là từ “sự luyện tập có chủ đích”.
Sau khi nghiên cứu những người kiệt xuất ở mọi tầng lớp xã hội, ông kết luận rằng những người kiệt xuất này đã nắm được phương pháp chính xác là “luyện tập có chủ đích” và hình thành “trí nhớ dài hạn” thông qua rất nhiều khổ luyện để trở thành thiên tài.
Hãy để trẻ tập trung làm việc và tập trung vào việc tự giải quyết vấn đề, đó là cơ sở để rèn luyện có chủ định.
Nếu một đứa trẻ quan tâm đến việc người khác đánh giá mình như thế nào mỗi ngày, thì làm sao chúng ta có thể mong đợi nó đạt được chính mình thông qua quá trình rèn luyện gian khổ?
Trong bất kỳ lĩnh vực giáo dục nào, đặc biệt là trong quá trình giúp trẻ tạo ra những biểu hiện tinh thần hiệu quả, lời nói và việc làm của cha mẹ có tác động rất lớn. Tạo môi trường thành công liên tục cho trẻ, cho trẻ phản hồi chính xác và hiệu quả, đồng thời cho phép trẻ thiết lập tư duy phát triển quan trọng hơn gấp trăm lần so với kết quả tạm thời.
Bởi không phải cha mẹ đồng hành cùng con trong suốt cuộc đời mà chính là cách suy nghĩ và hành vi của chính con.
Liệu một người có thể đạt được cái gọi là thành công trong cuộc sống hay không thực ra không quan trọng. Điều quan trọng là thông qua nỗ lực không ngừng, anh ấy có thể đạt được cảm giác hạnh phúc cho dù trải qua bao nhiêu đau khổ và thất vọng.
Nếu một người không có khả năng đạt được cảm giác hạnh phúc, ít nhất điều đó chứng tỏ rằng anh ta không đủ thông minh để đương đầu với thế giới phức tạp này.